Cuộc đời Chân Lạc

Xuất thân danh môn

Văn Chiêu Chân hoàng hậu sinh ngày Đinh Dậu, tháng 12 năm Quang Hòa thứ 5 (182), sinh ra tại huyện Vô Cực, Trung Sơn (nay là huyện Vô Cực, thành phố Thạch Gia Trang của tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc)[3]. Đương thời không ghi chép tên thật của bà, cái tên "Chân Mật" hay "Chân Lạc" là do dân gian gọi bà theo thần thoại về bài thơ Lạc Thần phú của Tào Thực. Về sau, các tác phẩm nghệ thuật đều lấy "Chân Mật" hoặc "Chân Lạc" để gán làm tên thật của bà.

Bà là hậu duệ của Thái bảo nhà Hán là Chân Hàm (甄邯), người đã cưới Khổng thị là con gái Bác Sơn hầu Khổng Quang (孔光) - cháu 14 đời của Khổng Tử[4]. Vào lúc đó, Khổng Quang được Thái hoàng thái hậu Vương Chính Quân nể trọng, cho làm Đế sư của Hán Bình Đế Lưu Khản, thăng đến Thừa tướng, do đó Chân Hàm là con rể cũng được trọng dụng, cùng các anh em họ Chân khác được vào triều làm quan, sau cũng vì thực tài mà Vương Mãng trọng dụng[5][6]. Từ lý do này, dòng họ Vô Cực Chân thị trở thành một đại thế gia, nhiều đời thế tập chức Quận thủ, hưởng 2.000 thạch bổng lộc[7].

Thân phụ của Chân thị là Chân Dật (甄逸) từng nhậm Huyện lệnh của huyện Thượng Thái, mẹ Trương thị là người Trường Sơn, sinh ba con trai và năm con gái. Trưởng là Chân Dự (甄豫) mất sớm, con thứ Chân Nghiễm (甄俨) khi lớn đi thi Hiếu liêm được làm chức Lang, sau làm Huyện lệnh của huyện Khúc Lương; con trai thứ 3 là Chân Nghiêu (甄尧) cũng qua thi cử Hiếu liêm. Bốn người chị em của Chân thị, lần lượt gọi là Chân Khương (甄姜), Chân Thuyết (甄脱), Chân Đạo (甄道) và Chân Vinh (甄荣)[7][8]. Riêng Chân thị vẫn không ghi rõ tên gì.

Chân Dật đã mất từ khi Chân thị mới lên 2 tuổi. Dù cha mất sớm, nhưng gia đình họ Chân vẫn còn khá giả. Một lần, Trương phu nhân đưa các con đến gặp một thầy bói tên là Lưu Lương (刘良) xem tướng, ông ta chỉ vào Chân thị mà nói: "Mai này cô bé này sẽ trở thành một người tôn quý". Từ nhỏ đến lớn, Chân thị đối với chuyện xem bói toán này không mảy may thích thú. Khi lên 8 tuổi, có những người múa tạp kỹ cưỡi ngữa trước sân nhà, các anh chị em của bà đều thích thú trèo lên mái nhà mà nhìn, riêng Chân thị không đi. Thấy làm lạ, các chị của bà đều hỏi nguyên do, Chân thị ung dung đáp:"Mấy cái này chỉ có con nít mới thích xem thôi!". Khi lên 9 tuổi, Chân thị rất thích đọc sách, đặc biệt rất thông minh, chỉ cần nhìn qua tiêu đề là đã lĩnh hội được các ý nghĩa, do vậy bà hay cùng các anh trai học chuyện bút nghiên. Các anh trai bà cười nói:"Con gái thì nên học nữ công, sao em lại thích đọc sách, có lợi gì chứ? Chẳng lẽ sau này em muốn đi thi Tiến sĩ, làm Nữ tiến sĩ à?". Chân thị chỉ đáp:"Phụ nữ hiền đức thời xưa, đều xem sai lầm của cổ nhân, cốt để tự nhắc nhở chính mình. Thế không đọc sách, thì lấy gì mà tham khảo chứ?"[9].

Khoan hòa nhân hậu

Trong cuộc chiến giữa các quân phiệt cuối thời Đông Hán, thiên tai mấy năm liên tục, dân chúng đều phải bán đi của cải để lấy lương thực sống qua ngày. lúc này, gia đình họ Chân có hơn nghìn ngũ cốc dự trữ, nhân cơ hội thu mua rất nhiều vàng bạc bảo vật.

Chân thị lúc ấy mới hơn 10 tuổi, nhìn tình hình mà nói với mẹ rằng:"Loạn thế cầu bảo, thật sự không phải thượng sách. Thất phu vô tội, hoài bích có tội, đây là tham của hại thân. Hiện tại dân chúng đều đang cực kì đói khát, chi bằng nhà ta đem ngũ cốc dự trữ khai ra cứu tế, vào lúc này việc ấy mới chính là ban ơn đức hạnh!". Cả nhà đều thấy lời nói của bà có lý, vì vậy đem toàn bộ lương thực dự trữ trong nhà tiến hành phân phát cho nạn dân[10].

Vào năm Chân thị được 14 tuổi, anh thứ Chân Nghiễm qua đời. Chân thị rất bi thương, đối với chị dâu thập phần kính trọng hòa nhã, lúc nào cũng tranh thủ giúp đỡ chị dâu chuyện nhà cửa, còn chăm sóc rất tận tâm các con của Chân Nghiễm. Mẹ của Chân thị là Trương phu nhân, tính tình cũng gọi là nghiêm khắc, do vậy thường lấy quy củ mà làm khó dễ con dâu, Chân thị khuyên mẹ:"Anh hai bất hạnh mất sớm, mợ hai tuổi trẻ thủ tiết, lại muốn chiếu cố con trẻ, tuy chị ấy là con dâu, nhưng xin mẹ hãy xem như con gái ruột cho thêm phần an ủi!". Sau đó, Trương phu nhân cảm động, thường ngày hay qua lại bên nhà Chân Nghiễm giúp đỡ con dâu[11].

Bà lớn lên khi Viên Thiệu đã làm chủ Hà Bắc, bao gồm Ký châu, U châu, Tinh châuThanh châu. Vào độ giữa thời Kiến An (196 - 220) của Hán Hiến Đế, Chân thị kết hôn với Viên Hy, con trai thứ hai của Viên Thiệu. Một thời gian sau, Viên Thiệu sai Viên Hy đi trấn thủ U châu (幽州; nay là Bắc Kinh, Thiên Tân, và phía tây Liêu Ninh) nhưng bà không theo mà vẫn ở lại Nghiệp Thành - thủ phủ Ký châu để hầu hạ mẹ chồng[12].

Làm dâu họ Tào

Về sau, Viên Thiệu bị Tào Tháo đánh bại trong trận Quan Độ, nhà họ Viên sụp đổ. Anh Viên Hy là Viên Đàm và em Hy là Viên Thượng tranh giành quyền thừa kế. Tào Tháo nhân đó chia rẽ và đánh bại anh em Viên Đàm và Viên Hy, tiêu diệt hi vọng cuối cùng của họ Viên. Từ đó, nhà họ Viên - thế lực duy nhất kình cựa được họ Tào, đã chính thức sụp đổ.

Năm Kiến An thứ 9 (204), Tào Tháo hạ được Nghiệp Thành, bắt sống gia quyến họ Viên. Chân thị là con dâu của Viên Thiệu, sau lại trở thành vợ của con trai thứ của Tào Tháo là Tào Phi - khi đó mới 18 tuổi, còn Chân thị đã 22 tuổi. Năm Kiến An thứ 12 (207), Viên Hy cùng Viên Thượng chạy trốn lên Liêu Đông và bị Công Tôn Khang giết chết, nộp đầu cho Tào Tháo.

Câu chuyện Chân thị từ dâu họ Viên trở thành dâu họ Tào mang nhiều yếu tố cảm hứng truyền tụng, bởi vì bà đã cùng lúc làm dâu cho hai dòng họ đối địch nhau và cũng là kẻ thù không đội trời chung của nhau nhất khi ấy. Chuyện bà gặp được Tào Phi về sau được thêu dệt nên rất nhiều, đa phần đều nói rằng chính dung mạo của bà đã làm lay động vị công tử họ Tào, và dù bà đã từng là vợ của kẻ thù họ Viên, Tào Phi cùng Tào Tháo cũng vẫn nạp bà làm dâu họ Tào. Sách Thế thuyết tân ngữ có dẫn một câu chuyện rằng, khi thắng trận, Tào Phi dẫn quân xông thẳng vào phủ họ Viên, thấy hai người đàn bà mặt mày lắm lem đang ôm nhau khóc phía sau lưng Lưu phu nhân, hỏi ra thì là con dâu thứ của Viên Thiệu, liền lệnh cho người khác rửa sạch mặt mũi Chân thị để nhìn rõ. Khi Tào Phi nhìn thấy dung mạo thực sự của Chân thị, choáng ngợp và động lòng vì nhan sắc cực diễm lệ, Tào Phi liền nạp Chân thị làm Chính thê, thập phần sủng ái[13].

Loại có thuyết nói, khi Tào Phi xông vào Viên phủ, Lưu phu nhân cùng Chân thị đang ở sảnh đường. Do quá sợ hãi, Chân thị úp mặt vào đầu gối Lưu phu nhân, không dám ngẩng lên, Tào Phi muốn xem mặt, Lưu phu nhân bèn nâng cằm của Chân thị lên cho Tào Phi nhìn rõ. Quả nhiên, nhan sắc của Chân thị khiến Tào Phi choáng ngợp, bèn nạp làm chính thê, rất sủng ái[14]. Sau khi lấy Tào Phi 8 tháng, bà sinh ra Tào Duệ. Hai người còn có với nhau một con gái, gọi là Đông Hương công chúa (东乡公主).

Trong phủ Tào Phi có rất nhiều thiếp, đều lấy vì mục đích chính trị, hoặc số ít là do Tào Phi ưa thích mà nạp. Chân thị khi là chính thất phu nhân, đối với người được Tào Phi ủng ái hết sức hòa nhã, đối với những người vô sủng cũng khoan hồng đãi ngộ, bà thường nói với Tào Phi rằng:"Các Hoàng đế thời xưa, có nhiều con cái nối dõi là do nạp rất nhiều thiếp thị. Phu quân cũng nên cân nhắc, nạp thêm những nữ tử hiền đức xinh đẹp, là để người nối dõi tông đường thêm nhiều, có là đại phúc của gia tộc". Tào Phi nghe qua, thầm khen Chân thị chu đáo[15]. Về sau, Tào Phi muốn đuổi một người thiếp trong phủ là Nhậm thị, nhưng Chân thị thỉnh cầu nói:"Nhậm thị là người Hương Đảng, bất luận phẩm đức, sắc đẹp, thiếp đều thua kém, ngài vì sao muốn biếm đi?". Tào Phi nói:"Nhậm thị tính tình nóng nảy, không ôn nhu, nàng ta oán hận ta không chỉ một lần, lần này nên đuổi đi!". Chân thị khóc nói rằng:"Thiếp chịu ơn của ngài, trong ngài đều biết, ngài đuổi đi Nhậm thị, tức bọn họ sẽ nghĩ đều do thiếp mà ra. Việc lọt đến tai cha mẹ, hai ngài sẽ cho rằng thiếp ghen tuông, kẻ dưới lại nói thiếp tội chuyên sủng. Hi vọng ngài suy xét kỹ thêm!". Rốt cuộc, Tào Phi vẫn nhất quyết đuổi Nhậm thị đi[16].

Trong thời gian làm dâu, Chân thị cũng được tiếng hiếu thuận với mẹ chồng là Biện phu nhân. Năm Kiến An thứ 16 (211), Biện phu nhân đi theo Tào Tháo đến phía Tây, nhưng đột nhiên bệnh, phải ở lại Mạnh Tân, lúc đó Chân thị cùng Tào Phi lại được lệnh lưu thủ Nghiệp Thành. Do không thể chiếu cố chăm sóc mẹ chồng, Chân thị hay lặng lẽ khóc, kẻ dưới nói rằng Biện phu nhân đã hồi phục rồi, nhưng Chân thị lại nói:"Phu nhân ở nhà, bệnh cũ thường tái phát, mỗi lần rất lâu sau mới khỏi, lần này vì sao có thể khỏe mạnh nhanh như vậy? Các ngươi chớ có gạt ta để an ủi". Sau đó, chính Biện phu nhân viết thư hồi âm bệnh tình của mình, Chân thị mới an tâm hơn hẳn[17]. Sang năm sau (212), tháng giêng, đại quân trở về, Chân thị đi nghênh đón, Biện phu nhân thấy con dâu quan tâm mình như vậy, xúc động rơi lệ, càng thêm yêu quý, nói: "Thật là một đứa con dâu hiếu thuận!"[18][19].